Bí quyết nghe để đánh giá thiết bị âm thanh. Bạn đã biết???
Sau đây là bài viết hướng dẫn các bạn đánh giá chất lượng thiết bị âm thanh của mình, tai là một bộ phận dùng để nghe chúng ta có thể đánh giá chất lượng thiết bị âm thanh thông qua những kỹ năng nghe của, hãy cùng tham khảo nhé:
Âm Bass
Trong âm nhạc tiếng Bass là dãy âm tần dễ nhận biết nhất nhưng cũng thường bị đánh giá sai nhiều nhất. Nhiều người vẫn hay lầm tưởng rằng tiếng Bass càng nhiều, càng hùng hồn là Bass hay. Tuy nhiên thực tế hoàn toàn trái ngược, Bass nhiều và mạnh mẽ chưa hẳn đã hay.
Chúng ta nghe âm Bass là để cảm nhận cái hay, nét tinh tế và chất lượng chứ không đơn thuần chỉ nghe số lượng nhiều ít của Bass bởi tiếng Bass khi được tái tạo trung thực sẽ mang đến cho âm nhạc rất nhiều màu sắc và cảm xúc.
Thật ra mà nói, tiếng Bass là cái sườn của giai điệu và nhịp điệu trong âm nhạc. Nhưng không may, rất khó để tái tạo hoàn hảo dãy âm tần này bởi vì tiếng Bass phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như: Phòng nghe, Ampli, Loa, Dây truyền dẫn tín hiệu …thậm chí cả nguồn phát nhạc.
Vấn đề phổ biến nhất thường gây ảnh hưởng đến chất lượng âm Bass là “Bass thiếu lực”, “ Bass thiếu chiều sâu”. Điều này khiến người nghe có cảm giác tiếng Bass cụt ngủn, chậm chạp, kéo theo nền nhạc chìm xuống, thiếu đi sức sống và nhạc tính.
– Những thuật ngữ mô tả âm Bass hay: chặt chẽ, sạch, chính xác, chắc, nhanh,có lực, rõ ràng, căng, có chiều sâu…Tiếng Bass hay được ví như chiếc lò xo âm nhạc đang căng đầy, luôn bật ra được những âm thanh mạnh mẽ, sống động.
– Những thuật ngữ dành cho âm Bass dở: mỏng, ngắn, rỗng,chậm chạp, thiếu lực, nặng nề…
Một số thiết bị âm nhạc cao cấp có thể đưa tần số dãy âm trầm xuống đến 35Hz, ở tần số này các chi tiết của âm Bass hầu như được tái tạo hoàn hảo, người nghe sẽ cảm nhận được độ rộng mở và chiều sâu của tiếng Bass một cách tốt nhất.
Âm trầm là nguyên nhân chính gây “phiền hà” trong quá trình tái tạo âm thanh của hệ thống hi-fi. Một suy nghĩ khá phổ biến là càng nhiều âm bass càng hay. Vì thế, nhiều hệ thống nghe nhạc đã được bổ trợ thêm subwoofer hoặc các núm chỉnh âm bass có thể làm căn phòng rung lên bần bật khiến người nghe tức ngực. Kết quả cuối cùng mà người nghe nhận được là tập hợp thanh âm lùng bùng, ầm ĩ và lẫn lộn. Đặc biệt, những âm thanh của bản ghi thuộc về dải dưới được tái tạo với chất lượng rất thấp.
Trên thực tế, vấn đề mà người nghe nhạc quan tâm là âm nhạc được tái tạo như thế nào, chứ không phải là màn trình diễn rung trời, chuyển đất. Điều quan trọng với người yêu nhạc không phải là sự nhiều ít của âm bass, mà là chất lượng trình diễn. Người sành nghe không chỉ tìm kiếm sự hiện hữu vật chất của âm bass mà là chất âm huyền ảo với đầy đủ sắc thái của âm trầm. Chẳng hạn: những người hay nghe nhạc jazz và nhạc cổ điển thường tìm kiếm hệ thống tái tạo chính xác từng nốt búng, gảy dây trên đàn contra-bass. Người nghe cần cảm nhận được từng nốt trầm của bản nhạc, ngay cả khi nó được chơi với tốc độ lớn trong màn hòa âm phức tạp. Nếu nghe các nghệ sĩ contra-bass như Ray Brown, Stanley Clarke, John Patitucci, Dave La Rue, Dave Holland hay Eddie Gomez trình diễn, hẳn người nghe muốn được thưởng thức chính xác những gì họ chơi. Nếu âm bass của hệ thống dở tệ, thì tốt nhất hãy để chúng xuất hiện ít nhằm giảm thiểu sự khó chịu cho người nghe.
Việc tái tạo âm trầm chính xác là yêu cầu thiết yếu tạo nên sự thỏa mãn tổng thể quá trình tái tạo âm nhạc. Âm thanh tần số thấp tạo nên âm nền và giữ nhịp cho toàn bộ bản nhạc. Tuy nhiên, âm trầm lại là phần khó tái tạo nhất, dù đó là thiết bị nguồn, ampli, đặc biệt là cặp loa hay phòng nghe.
Có lẽ, vấn đề phổ biến nhất của âm trầm là tính chi tiết và sự chính xác của cao độ. Hai thuật ngữ trên mô tả khả năng tái hiện âm bass bóc tách thành từng nốt nhạc. Mỗi nốt ở cao độ và sắc thái khác nhau, chứ không chồng chéo, lẫn lộn. Âm trầm tái tạo phải chân thực và chính xác đến mức người nghe phải phân biệt được đâu là âm bass được tạo ra từ cộng hưởng giữa cây vĩ cầm với bộ dây trên cây đàn contra-bass, đâu là âm bass được tạo ra trên cây bass điện Fender Percision. Khi được tái tạo chính xác, âm thanh ở tần số thấp có thể khiến người nghe phải ngạc nhiên bởi độ chi tiết của chúng.
Khi hệ thống tái tạo âm trầm thiếu chi tiết và không có sự phân biệt rành mạch về cao độ của từng nốt nhạc, toàn bộ dải trầm sẽ biến dạng thành âm nền lộn xộn. Người nghe có thể thấy được âm trầm, nhưng âm thanh đó thiếu nhạc tính và không có độ gắn kết với những dải âm còn lại trong bản nhạc. Hệ thống như vậy không thể tái tạo chính xác các nốt nhạc và đánh mất toàn bộ âm hình của hệ thống.
Với một số thể loại âm nhạc mà âm trầm đóng vai trò quan trọng trong việc giữ nhịp như rock, nhạc blue điện tử và một số thể loại jazz, tiếng guitar bass và tiếng trống bass thường có độ trễ so với âm thanh của các nhạc cụ khác, khiến âm thanh tổng thể có phần lỗi nhịp. Hơn thế, tiếng trống bass thường bị tiếng guitar bass nhấn chìm làm giảm nhạc tính nói riêng và chất lượng trình diễn tổng thể của loại nhạc cụ này nói chung. Màn trình diễn bè trầm thuyết phục này còn trở nên tồi tệ hơn với hệ thống có âm bass lớn. Đây cũng là lỗi tiếng trầm hay gặp nhất do cấu hình ban nhạc gồm bass điện và trống bass rất phổ biến.
Một số thuật ngữ được dùng phổ biến để mô tả âm trầm kém chất lượng như: đục, dính, vỡ tiếng, tràn (vống tiếng), kéo đuôi, thiếu lực, đần, lùng bùng và chậm. Ngược lại, thuật ngữ dùng để mô tả âm bass được tái tạo xuất sắc gồm: căng, nhanh, sạch, rõ ràng, nhẹ nhàng, chặt và chính xác.
“ Liều lượng” của âm trầm trong màn trình diễn âm thanh rất quan trọng. Nếu nghe thấy quá nhiều âm bass, âm nhạc sẽ bị lấn lướt bởi bè trầm. Âm bass dư thừa luôn “nhắc” người nghe rằng: họ đang nghe âm thanh tái tạo chứ không phải âm thanh tự nhiên. Sự dư thừa âm bass được gọi là nặng tiếng (heavy). Trong trường hợp ngược lại, tức là quá ít tiếng bass, hệ thống được coi là mỏng tiếng. Một hệ thống mỏng tiếng sẽ làm giảm nhạc tính tổng thể và không thể hiện được tiếng trầm đầy uy lực của cây bass điện, độ hoành tráng và sâu thẳm của tiếng kick-drum, sự run rẩy, gầm gừ của cây vĩ trên đàn contra-bass…
Tiếng bass mỏng sẽ khiến âm thanh của cây double bass nghe giống như tiếng cello, tiếng cello lại giống tiếng viola, tiếng trống bass mất đi sức nặng và tác động cần thiết lên bản nhạc trên góc độ tổng thể. Màn trình diễn bị mỏng tiếng thiếu độ ấm áp và cảm giác hiện hữu của nhạc cụ.
Thuật ngữ khác có liên quan đến chất lượng của âm trầm là độ mở hoặc độ sâu của âm bass. Độ mở là khả năng âm bass xuống thấp đến mức nào, không phải là âm bass hoặc bass cao được mô tả có liên quan đến sự dày mỏng hay nặng nhẹ. Thuật ngữ này dùng để chỉ âm bass sâu nhất trên dải âm mà tai người có thể nghe thấy. Một số loại nhạc cụ tái hiện được âm thanh này gồm kick drum và organ hơi (hoặc organ nhà thờ). Gần như tất cả hệ thống – ngoại trừ hệ thống âm thanh rất cao cấp – đều có hiện tượng suy giảm (âm lượng) của các dải tần ở mức rất thấp.
Thật may mắn, độ mở cực đại của âm bass lại không phải là điều kiện tiên quyết ảnh hưởng đến chất lượng tái tạo âm nhạc ở mức cao. Nếu hệ thống âm thanh có khả năng tái tạo bè trầm xuống đến 35Hz, thì người nghe dường như không cảm thấy thiếu âm trầm. Chỉ những người nghiện âm trầm hoặc hay nghe đàn organ hơi thì mới cần đến hệ thống có thể tái tạo âm trầm sâu hơn nữa. Một điểm mà người chơi cần lưu ý là thiết bị càng có khả năng tái tạo chính xác âm trầm sâu càng có giá bán không mấy dễ chịu, nếu không muốn nói là rất đắt.
Những hiện tượng sai âm thể hiện ở đỉnh và đáy của dải tần có thể khiến trung âm và âm trầm thiếu tự nhiên. Hiện tượng sai âm ở bè trầm tạo nên màn trình diễn buồn tẻ, đều đều khiến người nghe chóng mệt. Một trong những ví dụ điển hình được gọi với thuật ngữ là “bass một nốt”. “Bass một nốt” khiến âm nhạc bị biến dạng và bè trầm chỉ là những tiếng đập thiếu âm điệu buồn chán.
Có được âm trầm trung thực và tự nhiên là mong muốn của dân chơi audio. Đây cũng là “cảnh giới” khó vượt qua nhất khi set-up hệ thống nghe nhạc, ngay cả với các nhà sản xuất thiết bị audio hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, có thể khắc phục và hạn chế những vấn đề ngoài mong muốn liên quan đến bè trầm.
Trước tiên, muốn có được âm bass sâu đến đâu, được thể hiện ở nhạc cụ nào, người chơi cần lựa chọn đôi loa có dải tần thấp xuống được tương ứng. Tiếp đó, mỗi cặp loa cần được bố trí trong căn phòng có diện tích tương ứng theo nguyên tắc: loa càng lớn hoặc đường kính loa bass càng lớn thì diện tích phòng càng lớn.
Ngoài ra, việc kê, đặt loa ở vị trí nào trong phòng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng âm bass. Nếu có điều kiện, cặp loa nên được đặt cách tường sau tối thiểu 1m và cách tường bên tối thiểu 0,5m. Các thiết bị đánh cặp cũng là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng của âm bass. Với những đôi loa kín không lỗ thông hơi cộng với độ nhạy và trở kháng thấp, người chơi cần nhắm đến những bộ ampli có công suất lớn với trở kháng xuống được thấp. Đặc biệt, bộ cấp nguồn phải có chất lượng rất cao để đảm bảo cung cấp đủ và bù năng lượng vào đúng thời điểm mà hệ thống yêu cầu.
Ngoài ra, hệ thống phụ kiện như dây nguồn, lọc nguồn, dây dẫn và dây loa cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tái tạo âm bass tự nhiên và quyến rũ của bộ dàn.
Trước đây, những cặp loa đứng hoặc loa monitor cỡ lớn như: Altec, JBL, Coral… có đường kính loa bass từ 30cm đến cả mét là đích ngắm của những người coi trọng dải trầm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những cặp loa bass có đường kính lớn thường gặp vấn đề về tốc độ và khả năng phối hợp với phòng nghe bởi chúng làm dịch chuyển khối lượng khí lớn, rất dễ va đập với tường và các vật dụng trong phòng gây ra hiện tượng dội âm. Hiện nay, với sự xuất hiện của những vật liệu mới trong quá trình chế tạo củ loa, thùng loa và vật dẫn, nhiều hãng loa đã thu nhỏ đáng kể đường kính loa bass, thùng loa, đồng thời nâng cao độ chi tiết, độ động của âm bass đáng kể như: Wilson Audio, Kharma, Marten…
Âm Hình
Âm hình được khái niệm là “hình ảnh được tái tạo” của âm nhạc mà người nghe “nhìn thấy được” trong quá trình cảm thụ.
Khi đứng trước một dàn thiết bị âm thanh đã được phối ghép hoàn chỉnh, hãy nhắm mắt lại và tập trung cao, tưởng tượng như mình đang có mặt trong một phòng hòa nhạc. Chúng ta sẽ “nhìn thấy được” hình ảnh, vị trí của ca sĩ và từng nhạc cụ đang trình diễn.
Tại sao có điều kì lạ như vậy?
Đây chính là kết quả của hiệu ứng chiều sâu và chiều rộng trong không gian âm nhạc kết hợp với kỹ thuật thu âm hoàn chỉnh.
Trong tất cả những cách thức tái tạo âm nhạc thì “ tái tạo âm hình” được xem là thú vị nhất. Thử nghĩ về điều này, khi chúng ta ngồi nghe một bài nhạc, ta cảm nhận được tiếng Violon phát ra từ vị trí bên trái, tiếng kèn Saxophone đi từ bên phải, đàn Piano văng vẳng phía sau, giọng ca sĩ như đong đưa trước mặt… Cảm giác giống như đang ngồi trước một sân khấu nhạc sống và đối diện với ban nhạc bằng xương bằng thịt vậy.
Diễn giải cho quy trình hình thành âm hình như sau:
Khi một bộ dàn thiết bị âm thanh hoạt động sẽ truyền tải 2 dòng điện tín hiệu đến loa, tại đây 2 loa sẽ thực hiện nhiệm vụ tái tạo dòng tín hiệu này và truyền đến tai người nghe.
Sau khi tiếp nhận nguồn tín hiệu âm thanh, não của chúng ta sẽ tiến hành giải mã và phân chia dãy âm tần này thành nhiều tần số khác nhau. Thật ra, mắt không hề nhìn thấy hình ảnh hay chiều sâu của âm nhạc, âm hình được tạo ra từ não dựa trên nền âm nhạc thông qua trí tưởng tượng phong phú và những hiệu ứng âm học mà ra.
Các thiết bị âm thanh cũng ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng âm hình. Một số thiết bị có thể làm không gian của âm hình bị co lại, thiếu đi chiều sâu và độ rộng mở ( ta gọi là âm hình có biên độ cạn, hẹp). Số khác có khả năng khuyếch đại biên độ của âm hình lên cao hơn.
Để có được hệ thống có âm hình chuẩn, người nghe không nhất thiết phải bỏ cả gia tài để đầu tư vào hệ thống audio mà còn phụ thuộc vào kinh nghiệm và khả năng phối ghép, bố trí thiết bị của người chơi.
Âm hình là thuật ngữ mô tả kích thước hiện hữu của không gian âm nhạc trước hệ thống âm thanh chất lượng tốt, người nghe có thể hình dung được nhạc cụ, ca sĩ phía trước xuất hiện trong không gian biểu diễn như của dàn nhạc trong phòng nghe. Khái niệm âm hình bao trùm thuật ngữ không gian, để chỉ cách nhạc cụ hiện diện trong không gian ba chiều của bản nhạc khi được tái tạo.
Trong các thành phần tái tạo âm thanh – âm nhạc, âm hình góp phần quan trọng mang lại cảm giác kỳ diệu và sống động với hệ thống stereo. Nhưng trên thực tế, cảm giác kỳ diệu ấy lại do những yếu tố khá đơn giản tạo nên: cặp loa trong hệ thống được đánh giá bởi hai dòng tín hiệu biến đổi về điện áp theo mỗi thời điểm trong không gian hai chiều. Chỉ với hai đại lượng biến thiên trên cũng có thể vẽ nên không gian âm thanh ba chiều có hình khối và kích thước rõ ràng.
Với hệ thống audio có âm hình tốt, người nghe sẽ không cảm thấy mình đang nghe âm thanh được xếp hàng ngang, phẳng và hẹp về chiều sâu. Thay vào đó, người ta có thể cảm nhận rõ ràng vị trí của nhạc công violin số một phía bên trái gần vị trí nghe hơn. Âm thanh của bộ đồng xuất hiện phía sau dàn contra-bass phía bên phải. Tiếng lục lạc kêu lanh lảnh phía xa (nơi xa nhất trong dàn nhạc). Bản nhạc được cấu thành bởi các âm thanh tách biệt, hiện hữu trong không gian. Hơn nữa, người nghe còn được nghe âm hưởng của cây oboe phát ra từ vị trí của người chơi oboe, âm hưởng của violin phát ra từ vị trí của người chơi violin, những âm dội từ khan phòng bao quanh các nhạc cụ…
Những giới hạn về không gian của phòng nghe dường như biến mất và thay thế bởi một phòng hòa nhạc mênh mông. Tất cả chỉ với hai đại lượng điện áp.
Âm hình được tạo nên trong não của người nghe nhờ độ biến thiên được mã hóa trên hai kênh âm thanh. Khi người nghe cảm nhận được vị trí phát âm của các nhạc cụ nằm phía sau sân khấu là lúc đôi tai hay bộ não đã tổng hợp được những thông tin trong quá trình xử lý những điểm khác biệt giữa hai dòng tín hiệu được truyền đến tai.
Các thiết bị audio thường có sự khác biệt rất lớn trong khả năng tái tạo đặc tính này của âm nhạc. Một số sản phẩm thường ép cho âm hình như dãn ra về hai bên và rút ngắn chiều sâu của nó. Một số khác lại có thể tái tạo đầy đủ và chính xác âm hình tương tự như không gian biểu diễn thật. Âm hình là yếu tố cốt lõi trong việc tái tạo âm nhạc thỏa mãn người nghe. Tuy nhiên, những thiết bị âm thanh chất lượng không tốt thường làm hỏng âm hình của hệ thống.
Một số thuật ngữ mô tã âm hình tồi như hẹp hoặc bó, âm nhạc như bị nén lại giữa hai loa mà chưa có khả năng phát triển và “bọc” lấy người nghe. Âm hình thiếu chiều sâu bị gọi là phẳng hoặc mỏng tiếng. Lý tưởng nhất là độ mở của âm hình nên nhỉnh hơn chiều sâu của nó. Song, âm hình bị bó lại phía sau cũng làm suy giảm không gian trình diễn của bản nhạc.
Ảo giác về chiều sâu của âm hình được tăng thêm bởi sự tái tạo những âm thanh cộng hưởng của nhạc cụ trong không gian biểu diễn thực. Quả thực, sự dội âm giảm dần sau khi đạt cao trào trước những khoảng lặng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành không gian âm nhạc. Tín hiệu lớn cũng giống như ánh đèn flash trong phòng tối. Ở khoảnh khắc đó, không gian âm nhạc được định vị rõ ràng, cho phép người nghe “nhìn” thấy các chiều kích thước và đặc tính của âm hình.
Để tạo nên ấn tượng về sự hiện hữu có thực của các loại nhạc cụ trong không gian âm nhạc mà hệ thống trình diễn, bản thân âm cộng hưởng trong không gian biểu diễn thực cũng phải tách biệt so với không gian định vị của các nhạc cụ. Những thiết bị audio tầm tầm khó có khả năng tái tạo kiểu hồi âm trong không gian như vậy. Hiển nhiên, chứng kiến cho chiều sâu của sân khấu ngắn lại, khiến âm dội trùng vào âm hình của từng nhạc cụ, gây cảm giác lộn xộn cho người nghe.
Những thuật ngữ được dùng để mô tả âm hình tốt như: tập trung, chặt chẽ, rõ ràng. Những đặc tính của hình ảnh cũng được mô tả như: hình ảnh chặt chẽ, tập trung, định vị rõ ràng. Một âm hình tồi thường đi kèm những thuật ngữ: lẫn, thiếu mạch lạc, lộn xộn, nén, thiếu tập trung…
Một yếu tố quan trọng khác thường được đề cập mỗi khi nhắc đến âm hình, đó là lớp lang. Thuật ngữ này để chỉ khả năng phân tách vị trí xuất hiện trước sau của từng nhạc cụ trong không gian âm thanh tổng thể. Càng xuất hiện nhiều lớp lang trong âm hình, hệ thống càng được đánh giá cao.
Để đánh giá âm hình của hệ thống, người nghe cần có những bản ghi chất lượng cao, tốt nhất là các bản thử máy có mục dành cho âm hình như CD thử máy của các hãng thu âm danh tiếng trên thế giới. Trên thực tế, để phối ghép nên hệ thống có âm hình chuẩn không hề đơn giản, nó vừa phụ thuộc vào khả năng trình diễn của từng thiết bị, vừa phụ thuộc vào sự tương thích lẫn nhau giữa các thiết bị, vào phòng nghe và cách kê đặt loa, lựa chọn vị trí ngồi nghe. Tuy nhiên, các yếu tố trên không buộc người nghe phải bỏ cả gia tài để đầu tư vào hệ thống audio mới có được âm hình chuẩn mà phụ thuộc vào kinh nghiệm và khả năng phối ghép, bố trí thiết bị của người chơi.
Tính chi tiết trong Âm nhạc
Nói đến chi tiết là nói đến nét tinh xảo của âm nhạc. Ví dụ khi nghe nhạc chúng ta cảm nhận được sự tinh tế về đường nét, cấu trúc âm sắc của một nhạc cụ, đó chính là ”chi tiết”.
Một bộ dàn trình diễn tạo ra đươc nhiều “chi tiết” âm nhạc sẽ mang đến cho người nghe nhiều cảm xúc, âm nhạc sẽ nhiều màu sắc và tình cảm hơn.
Một số thiết bị Audio đã “phóng đại” chi tiết của âm nhạc lên nhiều quá sẽ làm cho nền âm thanh mang nét giả tạo, không trung thực. Điều này khiến cho âm nhạc có vẻ “kích động”, gây cho người nghe cảm giác mệt mỏi, khó chịu.
Nền âm nhạc thiếu chi tiết sẽ kéo theo tiếng Treble mất đi độ tươi sáng, âm sắc của nhạc cụ sẽ chìm hẳn và thiếu sinh động.
Nhịp điệu và tiết tấu
Nhịp điệu và tiết tấu đóng vai trò là “ nguồn cảm hứng “ trong âm nhạc. Điệu Blue hay Slow Rock chậm buồn tha thiết sẽ khiến người nghe lắng đọng cảm xúc, một bài nhạc với nhịp điệu Tango, tiết tấu nhanh, dồn dập, sẽ cuốn hút người nghe hòa mình vào trong thế giới của âm thanh, thôi thúc cơ thể chúng ta phải lắc lư, cử động theo từng nốt nhạc.
Như đã nói ở phần trên, nhịp điệu và tiết tấu được hình thành dựa trên nền của âm Bass. Do vậy, một người am hiểu về âm nhạc chỉ cần nghe loáng thoáng vài tiếng “ xập xình” của âm Bass cũng đủ nhận ra bài nhạc đang được thể hiện ở tiết điệu gì?.
Nhip điệu và tiết tấu cũng phụ thuộc nhiều vào các thiết bị âm thanh. Một bộ dàn trình diễn hay sẽ khiến cho nhịp điệu trở nên lả lướt và hấp dẫn hơn, trái lại những thiết bị tầm thường sẽ làm cho nhịp điệu nặng nề, chậm chạp, âm nhạc sẽ mất đi sinh khí vốn có.
Quy Trình Thẩm Định Âm Nhạc
Sau khi đã nắm rõ được những từ ngữ, thuật ngữ chuyên dụng, hiểu thấu bản chất của âm nhạc và những yếu tố quyết định đến chất lượng âm thanh.