Thiết kế một phòng thu chuyên nghiệp, đúng kỹ thuật là yêu cầu đầu tiên và cần thiết để có thể sản xuất ra nguồn audio chất lượng cao. Bài viết này sẽ giới thiệu một số vấn đề cơ bản nhất cũng như các lỗi thường gặp trong việc thiết kế một phòng thu nhằm phục vụ cho việc sản xuất audio chất lượng cao, audio đa kênh phục vụ cho sản xuất media đa phương tiện nói chung cũng như cho sản xuất các chương trình truyền hình.
1. Các điểm chính cần quan tâm trong thiết kế phòng thu.
Để có thể thiết kế được một phòng thu audio đạt yêu cầu về mặt kỹ thuật thì phải đảm bảo được nhiều tiêu chí khác nhau. Theo đó, một số điểm chính cần phải đáp ứng như sau:
Yêu cầu chung:
– Khả năng làm việc liên tục trong thời gian dài (24 giờ/ngày) mà không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài.
– Thiết kế kiến trúc phòng thu có thể giúp truyền cảm hứng đến những người tham gia trong việc thu âm. Về mặt kỹ thuật, thiết kế phòng phu phải đảm bảo chất lượng của việc thu âm không bị hạn chế bởi các lỗi thiết kế, bị ảnh hưởng do lắp đặt thiết bị.
– Nguồn không khí cung cấp cho phòng thu phải đảm bảo trong lành, đầy đủ, và môi trường được kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm.
Cách âm và mức độ tiếng ồn xung quanh:
Cách âm là ngăn không cho âm thanh từ phòng thu thoát ra ngoài, gây ảnh hưởng đến mọi người xung quanh. Cũng như không cho âm thanh từ môi trường bên ngoài tác động vào phòng thu, có thể làm gián đoạn việc thu âm và ảnh hưởng đến chất lượng âm thanh.
Cách âm từ trong ra ngoài: đảm bảo mức âm thoát ra ngoài dưới 35 dB (đây là ngưỡng có thể chấp nhận được).
Cách âm từ ngoài vào trong: đảm bảo mức âm nhiễu dưới 20 dB là quy chuẩn cho những phòng thu chuyên nghiệp. Nếu mức độ tiếng ồn xung quanh quá 30 dB có thể làm giảm chất lượng của việc thu âm.
Độ tin cậy trong hệ thống:
Một phòng thu chuyên nghiệp phải hoạt động hiệu quả, tiện lợi và đặc biệt là phải có độ tin cậy cao. Nghĩa là các thiết bị đảm bảo đáp ứng tốt các thông số kỹ thuật yêu cầu, luôn được bảo quản tốt, trong quá trình thu âm các lỗi có thể xảy ra phải được hạn chế đến mức thấp nhất. Do đó, một phòng thu chuyên nghiệp là phòng thu mà các kĩ thuật âm thanh được kiểm soát đầy đủ, có cơ chế giám sát đáng tin cậy bắt đầu từ việc thu âm vào micro. Yêu cầu này cũng có nghĩa là có sự cân bằng hợp lý trong quá trình hoạt động của hệ thống giám sát là cần thiết.
2. Các khái niệm cơ bản về âm thanh, Decibels, thính giác.
Nhận thức về âm thanh:
Âm thanh được con người nhận thức qua hệ thống thính giác. Khi một âm thuần ở tần số giữa tăng cường độ lên 10 lần, âm thanh sẽ tăng xấp xỉ gấp đôi mức âm lượng. Việc gia tăng cường độ 10 lần này được biểu diễn bởi một đơn vị gọi là một bel. Một phần muời của cường độ tăng này được biểu diễn bằng 1 decibel (dB) và 1 dB biểu diễn mức độ thay đổi nhỏ nhất mà ta có thể phát hiện trên một âm thuần ở tần số giữa. 10 dB (1 bel) biểu diễn sự gia tăng gấp đôi hay giảm một nữa âm lượng.
Ví dụ, đèn giao thông ở một thị trấn nhỏ sẽ sinh ra một mức áp lực âm (SPL-sound pressure level) khoảng 60 dBA, trong khi một ban nhạc rock lớn sẽ sinh ra khoảng 120 dBA. Sự khác biệt áp lực âm giữa 60 và 120 dBA là một ngàn lần, nhưng hiển nhiên rằng một ban nhạc rock không thể lớn hơn 1000 lần đèn giao thông. Nếu chúng ta sử dụng khái niệm 10 dB thì 70 dBA sẽ lớn gấp đôi 60 dBA, 80 dBA sẽ 4 lần lớn hơn (2×2), 90 dBA sẽ là 8 lần (2x2x2), 100 dBA sẽ 16 lần (2x2x2x2), 110 dBA sẽ 32 lần (2x2x2x2x2), 120 dBA sẽ 64 lần (2x2x2x2x2x2). Khái niệm mức áp lực âm của ban nhạc rock lớn hơn 64 lần đèn giao thông hợp lý hơn về mặt cảm nhận.
Decibel; công suất âm, áp lực âm, cường độ âm:
Decibel là một trong những thuật ngữ kĩ thuật phổ biến nhất. Nói đúng ra nó thể hiện một tỉ lệ công suất, nhưng nó có nhiều ứng dụng khác. Thông số tính theo dB SPL là một thông số định nghĩa mức độ áp lực âm. Ví dụ, 0 dB SPL được định nghĩa như là áp lực của 20 micro pascal (một pascal là một newton trên mỗi mét vuông).
Ở đơn vị logarit, cứ mỗi lần tăng hay giảm 3 dB thể hiện sự tăng gấp đôi hay giảm phân nửa của sông suất. Tăng 3 dB ở công suất trên 1W sẽ là 2W, thêm 3 dB nữa sẽ mang lại 4W, và tăng thêm 3 dB nữa (9 dB trên 1W) sẽ là 8W. Trong thực tế, tăng một vòng 10 dB là tăng 10 lần công suất, đây là một hệ số có ích dễ ghi nhớ.
Áp lực âm tăng gấp đôi với mỗi lần tăng 6 dB, như vậy người ta sẽ cần phải tăng 4 lần công suất âm từ 1W đến 4W (3dB + 3 dB) để tăng gấp đôi áp lực âm từ một nguồn âm. Thính giác của chúng ta có xu hướng nhận thức được những thay đổi trong mức áp lực âm, và nó đã được biết trước rằng một lượng tăng hay giảm 10 dB là cần thiết để tăng gấp đôi hay giảm phân nửa mức âm. Do đó, nếu tăng 10 dB sẽ làm tăng gấp đôi mức âm, nhưng với công suất thì phải tăng lên 10 lần so với công suất ban đầu mới đạt được mức tăng gấp đôi về áp lực âm của nó.
Như vậy, 100W chỉ lớn gấp đôi 10W về mức âm, 1000W chỉ lớn gấp đôi 100W, và 10000W chỉ lớn gấp đôi 1000W. Do đó, 10000W chỉ lớn hơn 8 lần 10W và trong thực tế chỉ lớn hơn 16 lần 1W. Điều này hoàn toàn phù hợp với những gì đã nói ở trên, rằng một ban nhạc rock sinh ra 120 dB SPL và chỉ lớn hơn 64 lần đèn giao thông, mặc dù công suất âm hơn 1000 lần.
3. Thiết kế phòng điều khiển.
Sự ra đời của các phòng điều khiển chuyên dụng:
Trở lại những ngày mà hầu hết các bản thu được thực hiện là mono, sự bố trí phù hợp của các loa kết hợp vị trí người nghe có thể cải thiện được chất lượng âm thanh cao hơn. Khi stereo ra đời, các yêu cầu mới cũng xuất hiện cùng với nó. Vị trí nghe bây giờ phụ thuộc khoảng cách các loa và các góc đối diện giữa chúng. Vì vậy, không còn đơn giản là chỉ điều chỉnh vị trí của một loa đơn và/hoặc vị trí nghe, mà phụ thuộc vào việc di chuyển toàn bộ tam giác (hình thành bởi hai loa và người nghe). Nói cách khác, tất cả 3 phần tử cần được di chuyển không chỉ liên quan đến các đáp ứng cá nhân của chúng trong phòng, mà còn cần phải duy trì được các góc độ và khoảng cách tương đối giữa chúng. Việc dịch chuyển tránh xa các vị trí không mong muốn (lối đi, gần cửa) có thể phá vỡ sự cân bằng stereo hoặc có thể làm giảm chất lượng âm.
Nổ lực thương mại lớn đầu tiên để tạo ra các phòng âm tiêu chuẩn hóa là bởi Tom Hidley ở Westlake Audio, California. Ngay sau đó, các phòng loại này đã được sử dụng trên toàn thế giới, và đã được thiết kế đảm bảo thời gian âm vang ít hơn 0.3s. Họ đã hợp nhất các âm lượng lớn của “bass traps” để thời gian vang ở tần số thấp có mức tương đối với âm mid-band, và cũng cố gắng để tránh tạo các sóng đứng tần số thấp, hay các chế độ cộng hưởng.
Để giảm chế độ cộng hưởng, một cấu trúc đã được đề xuất và được chứng minh đạt hiệu quả cao là sử dụng cấu trúc không song song hoàn toàn (non-parallel construction), để ngăn cản sự hình thành các mode trục năng lượng (energetic axial mode) nhiều hơn. Các phòng loại này đã nhận được những đánh giá khá tốt vào thời điểm đó, và đó là một cải tiến quan trọng.
Cũng trong giữa những năm 70, Wolfgang W.Jensen đã thiết kế ra các phòng như mô tả trong hình 2. Các phòng này sử dụng các hấp thụ răng cưa, có xu hướng hấp thụ nhiều sóng đến từ các loa. Chúng có các bề mặt phản xạ ở các góc cho phép phản xạ các âm trở lại (các âm được tạo ra trong phòng, như tiếng nói và họat động của nhân viên). Các bức tường sau được thiết kế cho phép phản xạ hoặc hấp thu âm tùy theo yêu cầu.
Các phòng loại này giúp phân biệt rõ giữa nguồn âm yêu cầu cho việc giám sát và nguồn âm đối với việc cảm nhận của người.
Thiết kế phòng điều khiển Live-End, Dead-End ( LEDE):
Cuối những năm 1970, Don và Carolyn Davis đã phát hiện ra nhiều âm thanh và hiện tượng âm học mà từ đó phát triển các hệ thống đo lường Time Energy Frequency / Time Delay Spectrometry (TEF/TDS). Phép đo TDS được thực hiện tại Wally Heider Studios, Los Angeles, và tại RCA and Capitol Records, Hollywood, đã dẫn họ đến các khái niệm Reflection Free Zone và các phòng điều khiển Live-End, Dead-End ( LEDE).
Đồng thời, Carolyn Rodgers đã trình bày những ý tưởng mới về các đặc tính phản xạ phòng, và có thể gây xáo trộn tai bằng cách tăng sự lọc đáp ứng. Nghiên cứu này đã đưa ra một số giải thích rõ ràng về sự liên quan âm học của các đáp ứng Energy/Time Curve (ETC) trong các phép đo được khảo sát, và củng cố các khái niệm về nguyên tắc LEDE của Davis.
Các phòng LEDE thiết kế dựa trên một số tiêu chuẩn âm học như hiệu ứng Haas và xét đến khả năng định hướng của thính giác người. Hiệu ứng Haas, được biết như là hiệu ứng ưu tiên, xuất hiện khi hai âm thanh ngắn được nghe trong chuỗi nhanh. Hệ thống thính giác người sẽ xảy ra hiệu ứng chặn âm thanh thứ hai và cho quyền ưu tiên âm thứ nhất được nghe. Hai âm này được nhận thấy như một âm duy nhất đến từ hướng của âm thứ nhất, nhưng với âm lượng lớn hơn. Để cho hiệu ứng này có tác dụng, phải có khoảng cách nhỏ nhất 1ms giữa hai âm, hoặc tai người sẽ có xu hướng nhầm lẫn vị trí nguồn nếu hai âm không đồng vị trí. Quá 30 hay 40ms, hai âm được nghe như các sự kiện riêng biệt. Hiệu ứng có thể được ghi đè nếu âm thứ hai cao hơn 10 hay 15 dB so với âm thứ nhất. Haas đã phát biểu rằng, trong khoảng từ 1ms đến 40 ms, âm thanh thứ hai đến sẽ cần lớn hơn ít nhất 10 dB so với âm thanh thứ nhất nếu nó muốn được nghe tách biệt và cân bằng.
Các tiêu chí của phòng Non-Environment:
Sau những lời phê bình ngày càng tăng với những thiết kế năm 1970 của mình, Tom Hidley đã đưa ra một đột phá về thiết kế studio giữa những năm 1980 và 1983. Trong suốt thời gian này, ông đưa ra một khái niệm mới mà ông gọi là nguyên tắc phòng Non-Environment. Trong những phòng này, ông đã thiết kế tường trước phản xạ tối đa, tất cả các bề mặt khác của phòng có khả năng hấp thụ âm tối đa. Thông qua những bộ giám sát thiết lập, tường trước sẽ hoạt động như một vách ngăn mở rộng và không thể phản xạ âm thanh từ các loa.
Bằng cách thêm nhiều vật liệu và thiết kế có khả năng hấp thụ âm cao vào phòng, giảm số lượng các phản xạ, tỉ lệ của âm trực tiếp và âm được phản xạ tăng lên. Tính nhất quán giữa phòng loại Non-Environment có lẽ là lớn hơn giữa hầu hết các loại phòng khác.
Phòng Toyoshima:
Toyoshima giới thiệu trong bài báo năm 1986, ‘Một phòng điều khiển nên được thiết kế để tường trước phản xạ và tường sau không phản xạ. Để ngăn chặn các sóng đứng ở những tần số thấp, tường sau phải hấp thụ âm hòan toàn. Nếu tường sau vẫn còn phản xạ, tường phải được thiết kế để có khả năng khuếch tán âm cao. Tuy nhiên, ví dụ ở tần số 85 Hz kích thước của các bộ phận khuếch tán âm phải có kích thước là 4m và điều này là rất khó trong thiết kế phòng thực tế.
Hướng giải quyết khác như Hidley đã nghiên cứu sử dụng những hệ thống hấp thụ âm có kích thước khoảng 1.2m gắn trên các tường sau, và Toyoshima đã khuyến cáo sử dụng các thiết kế hấp thụ âm có độ dày xấp xỉ 60 cm.
Do đó có hai trường phái, một cho phép sự phản xạ âm ở tường phía sau trong các phòng điều khiển như đề xuất của Davis, một lựa chọn sự hấp thu âm tối đa như thiết kế của Hidley, Toyoshima.
4. Hệ thống âm thanh surround.
Âm thanh surround trong cinema:
Dolby đã đề xuất một ý tưởng đột phá cách đây nhiều năm bằng cách giới thiệu thiết kế của họ về âm thanh trong hệ thống cinema. Họ không nhắm đến thiết lập một hệ thống có thể hỗ trợ đa dạng các dịch vụ mà chọn thiết kế những hệ thống (trong một phạm vi sử dụng giới hạn và kiểm soát hợp lý của âm thanh) sẽ thỏa mãn tốt nhu cầu của khán giả và đáp ứng được các yêu cầu sáng tạo của những đạo diễn phim. Họ định nghĩa được những tiêu chuẩn ban đầu của các kênh âm thanh surround, và định rõ được những hạn chế của hệ thống sử dụng dùng 4 kênh audio đã được phát triển trong những hệ thống trước đây của họ.
Một vài điểm chính trong thiết kế âm thanh surround trong cinema của Dolby:
– Những âm thanh quan trọng nhất thường đến từ phía trước tương ứng với hành động trên màn hình, và đạo diễn không muốn người xem bị sao lãng bởi những âm thanh có mức độ quan trọng ít hơn đến từ phía sau.
– Việc trộn âm để trình chiếu trong những cinema tuân theo một sự phối hợp chặt chẽ hợp lý đáp ứng đồng thời yêu cầu tích hợp về âm thanh và điện ảnh.
– Tùy theo yêu cầu về mức độ nghiêm ngặt của chất lượng, kỹ xảo âm thanh, kích thước phòng mixer có thể đòi hỏi những giải pháp thiết kế khác nhau để đáp ứng được nhiều mức độ tiêu chuẩn và mức độ chính xác.
TV surround:
TV và video có những yêu cầu tương tự như cinema vì nhìn chung khán giả khi thưởng thức các chương trình cũng ngồi trước màn hình xem những hình ảnh chuyển động và nghe các kênh âm thanh (với TV và video thì chất lượng âm thanh có thể không đủ gồm 5 kênh audio như cinema). Tuy nhiên, vẫn có những điểm khác biệt so với thưởng thức cinema như:
– Những tiếng ồn xung quanh trong môi trường nghe thường lớn hơn trong những cinema.
– Nhiều công ty phát thanh truyền hình có những tiêu chuẩn thiết lập riêng của họ, và đôi khi bị hạn chế bởi những tiêu chuẩn không phải lúc nào cũng mang lại chất lượng cao cho âm thanh (ví dụ, âm thanh truyền hình tương tự tại Việt nam hiện chỉ là mono).
Âm thanh surround trong âm nhạc:
Việc sản xuất âm thanh cho âm nhạc sẽ có những yêu cầu chất lượng cao cấp hơn, nên những phòng trộn âm dùng cho âm nhạc phải được thiết kế đặc biệt. Không giống như trong cinema, TV và video, các phòng trộn âm cho sản xuất nhạc stereo chất lượng cao có một số trường phái thiết kế như: các phòng ‘Live-End, Dead-End’, và những thiết kế của Jensen. Khái niệm Non-Environment để nói đến các phòng có khả năng triệt được tiếng vang đến các loa, sàn và tường trước được phản xạ sao cho âm nền, tiếng nói,… sinh động trong phòng. Các thiết kế của Sam Toyoshima và Eastlake Audio dường như tiếp cận khái niệm Non-Environment, nhưng chú ý đến bố trí cẩn thận các bề mặt phản xạ nằm rải rác để mở rộng môi trường tiếp xúc. Trong tất cả các thiết kế này, bức tường phía sau luôn được thiết kế để có khả năng hấp thu âm cao nhất.
Nhìn chung, đến thời điểm này âm thanh surround theo định dạng cinema 5 kênh được chấp nhận như là hệ thống surround cơ bản vì:
- Được chấp nhận trong nhiều thiết kế.
- Đã phổ biến.
- Được tạo ra bởi các chuyên gia và đã thông qua các quá trình phản biện.
- Đáp ứng hầu hết các hiệu ứng kỳ vọng mà âm thanh surround có thể mang lại.
- Không đòi hỏi hệ thống riêng biệt cho music và cinema.
- Cho phép linh hoạt trong lựa chọn và bố trí vị trí của loa sau/bên cạnh.
Các cảm nhận về nguồn âm:
Các hệ thống 5 kênh surround khác nhau có thể cung cấp các mức độ hiệu quả khác nhau điều này có thể được kiểm chứng dễ dàng thông qua cảm nhận của người nghe, qua các tiêu chí xác định, qua vị trí người nghe… Phần này sẽ giới thiệu các đáp ứng của các phương pháp thiết kế khác nhau trong các điều kiện âm thanh khác nhau.
– Các nguồn riêng biệt đơn giản:
Loa đơn trước cung cấp âm thanh trực diện đến người nghe sẽ phụ thuộc vào các điều kiện lắp đặt, không gian phía sau của phòng, và đặc tính của các bề mặt đối diện loa. Giả sử rằng một bộ đầy đủ của hệ thống 5 kênh các loa giống nhau được lắp đặt trong một buồng không có tiếng vang, gắn tại các điểm xác định nằm trên chu vi của một vòng tròn. Khi kiểm tra bằng microphone đo đa hướng tại vị trí người nghe sẽ bắt được các đáp ứng cùng tần số từ mỗi nguồn. Tuy nhiên, một người nghe tại cùng vị trí như microphone sẽ nhận thấy những tần số cao từ các loa phía sau ít hơn từ các loa phía trước, và tai người (tai ngoài) sẽ đáp ứng tốt hơn đối với những tần số cao từ một hướng phía trước. Các loa phía sau có thể được nhận thấy như các nguồn riêng biệt. Thiết kế chung nhất hướng đến là tạo được đáp ứng bằng phẳng nhất có thể được hy vọng từ tất cả các loa.
– Nhiều nguồn phân phối:
Trong điều kiện không có tiếng vang, khi cung cấp nhiều nguồn âm và một nguồn âm riêng biệt thì tất cả có thể được nhìn nhận như là một nguồn phân phối. Khi đó, phụ thuộc vào sự phân bố chính xác của các loa, khi cung cấp các nguồn âm thanh đồng thời vẫn có thể giúp làm “sáng” hơn nguồn âm thanh riêng biệt do một số loa được kỳ vọng sẽ chuyển tiếp trực tiếp nhiều hơn âm thanh riêng biệt đến ống tai. Khi kiểm tra đáp ứng dùng microphone đo tại vị trí nghe trong các điều kiện không tiếng vang thì đáp ứng sẽ ít bằng phẳng hơn trường hợp trên (các nguồn riêng biệt).
– Các nguồn khuếch tán:
Khi dùng loa rời rạc hướng vào một bộ khuếch tán được gắn trên tường thì các đáp ứng có thể được cộng gộp lại với nhau. Thiết kế này được kỳ vọng sẽ cung cấp một đáp ứng phẳng tương đối đến vị trí nghe, gần như bất chấp bản chất của các âm thanh phòng. Các nguồn khuếch tán có các mẫu bức xạ rộng trên một phạm vi mở rộng của các tần số, và hạn chế được các tác động suy giảm âm do các ảnh hưởng cộng hưởng phòng và giao thoa sóng đứng.
Có thể thấy, các loa rời rạc hướng vào một bộ khuếch đại gắn trên tường được xem giống như một nguồn thông thường ở những tần số thấp, nơi mà các mẫu bức xạ âm có xu hướng là một nguồn nhỏ gọn đa hướng.
– Bố trí kênh âm trầm trong surround:
Đây là hệ thống 5.1 nguyên mẫu, nơi mà “point-one” (0.1), hay kênh âm thanh tần số thấp được cung cấp đến một hệ thống loa siêu trầm chuyên dụng. Trong các mixer cinema cho Dolby Digital, DTS (Digital Theatre Systems) và SDDS (Sony Dynamic Digital Sound), kênh âm thanh tần số thấp này được tùy chỉnh bởi người điều khiển mixer. Tuy nhiên, trong hệ thống Digital Stereo (thực ra là một định dạng suround ma trận), các loa siêu trầm được cấp tín hiệu từ một hệ thống quản lý tần số thấp trong bộ xử lý, phần nào giống trong các hệ thống rạp hát gia đình.
Loa siêu trầm thường được bố trí ở vị trí off-centre (không phải là vị trí trung tâm). Điều này nhằm tránh sự đối xứng phòng, nơi mà các âm trầm dường như suy giảm do khoảng cách cân bằng từ một loa trung tâm đến hai tường bên. Việc bố trí off-centre dẫn đến sinh ra nhiều đáp ứng đỉnh và độ dốc nhưng độ lớn thấp hơn trường hợp bố trí đối xứng. Tần số khi mà vị trí off-centre của một loa siêu trầm có thể được phát hiện bởi tai thường là tần số cắt (tần số cao nhất mà kênh âm thanh siêu trầm cung cấp). Nhìn chung, tần số dưới 80 Hz rất khó để phát hiện vị trí nguồn cung cấp, khi tăng tần số cut-off, vị trí nguồn tần số thấp có thể nhận biết được (thông thường, tần số dưới 50 Hz là đủ để đảm bảo không thể xác định vị trí nguồn âm). Thực tế, nguồn âm trầm có những trường hợp có các tần số cao và vị trí của loa trầm có thể phát hiện bởi người nghe.
Để lọai bỏ sự chú ý vị trí nguồn off-centre trong khi duy trì điều khiển phòng không đối xứng, Dolby khuyến cáo sử dụng hai loa siêu trầm, được cấp tín hiệu từ cùng một nguồn tín hiệu.
5. Một thiết kế thực tế.
Thông thường, khi thiết kế các phòng sản xuất âm thanh được yêu cầu chủ yếu là một phòng stereo có khả năng sử dụng được cho việc thu và mixer âm thanh surround chất lượng cao. Khuyến cáo được chú ý nhiều trong âm thanh surround là sử dụng 3 loa toàn dải giám sát được gắn ngang bằng nhau (cùng một độ cao) .
Loa dải giữa (250 Hz hay 500 Hz đến 5 kHz) điều khiển tất cả 3 loa được đặt ở độ cao 147 cm so với nền, mục đích là để không làm giảm chất lượng hai kênh stereo. Tường bên phải của phòng chứa một cửa sổ cho phép nhìn cảnh quan, tường sau và bên trái là một cửa kính dẫn đến các phòng của studio.
Âm thanh stereo được chú trọng, tường bên được thiết kế để hỗ trợ tối đa stereo, tường sau thiết kế hấp thụ âm tối đa. Các tường bên đã được làm để hấp thụ âm tương đối, ngoại trừ hai cửa sổ và cửa kính. Cửa kính có độ dày 12mm, và các cửa sổ là các góc khá dốc hướng lên để khi phản xạ âm xảy ra có thể được trần phía trên hấp thụ. Các bề mặt phẳng làm tăng một mức độ nhất định sự tán xạ âm ở những tần số cao, những vị trí này sẽ phản xạ một phần năng lượng sẽ trở lại vị trí nghe từ bất kỳ các loa. Thiết kế này không dùng các loa sau.
Loa trung tâm cần được chú trọng trong thiết kế. Theo đó, loa này nên được kết nối với bộ khuếch đại nguồn, ngay cả khi không sử dụng trong suốt quá trình thu và mixer âm thanh stereo, để tránh vấn đề cộng hưởng âm từ các loa gần.
6. Lời kết.
Có nhiều nguyên tắc thiết kế các phòng sản xuất âm thanh đã được đưa ra. Mỗi nguyên tắc đều có những điểm khác biệt riêng của nó. Nhìn chung, các thiết kế theo dạng phòng Non-Environment được xem là tối ưu và được áp dụng rộng rãi. Về âm thanh surround, định dạng cinema năm kênh cơ bản được phần lớn người dùng chấp nhận và được nhận định sẽ là định dạng được sử dụng phổ biến trong truyền hình và video.