Hệ thống thu âm bằng máy tính đôi lúc cũng trở nên “cứng đầu”, “khó chịu”. Điều này có thể dễ dàng khắc phục nếu như bạn tuân thủ một số qui tắc căn bản dưới đây.
Giữ cho ổ cứng luôn luôn “mới”
Ổ cứng có thể trở nên “ì ạch” sau những đợt thu âm: lưu dữ liệu, xóa đi một phần trong khi vẫn chỉnh sửa các phần khác, sau đó lại tiếp tục thu đi thu lại. Nhiều lần như vậy, dữ liệu lưu trên ổ cứng sẽ không còn nằm liền lạc như lúc ban đầu nữa, việc đọc ghi dữ liệu sẽ mất thời gian nhiều hơn và máy tính sẽ hoạt động kém hiệu quả, trở nên chậm chạp, có khi xảy ra hiện tượng “giật cục”, rớt nhịp…
Để giữ cho ổ cứng không bị hiện tượng như trên, bạn cần thường xuyên thực hiện các bước sau:
Bước 1: Sao lưu dữ liệu:
Điều này rất quan trọng, vì vậy xin đừng bỏ qua bước này. Bạn nên dành riêng một không gian đĩa để chứa dữ liệu sao lưu một cách thường xuyên. Tốt nhất là lưu dữ liệu ở một ổ đĩa riêng biệt, ghi ra CD, DVD để lưu càng tốt. Để tránh lãng phí do dữ liệu thu đã lưu quá lâu, không còn dùng tới nữa. Bạn có thể lên kế hoạch để lưu dữ liệu theo kiểu xoay vòng tùy theo mục đích của dữ liệu. Nghĩa là các dữ liệu đã quá thời gian qui định thì xóa đi, dành chỗ cho dữ liệu mới.
Bước 2: Xóa trắng ổ đĩa
Sau khi dữ liệu đã được sao lưu an toàn, bạn có thể xóa hết tất cả dữ liệu trên đó. Cách nhanh nhất để làm điều này là dùng lệnh format của windows.
Chú ý: bạn phải hết sức cẩn thận khi thực hiện thao tác này. Vì dữ liệu sẽ hoàn toàn bị xóa sạch sau khi định dạng [format]. Phải đảm bảo là mọi dữ liệu đã được sao lưu và kiểm tra thật kỹ trước khi định dạng lại ổ đĩa để chắc chắn rằng bạn không định dạng nhầm ổ đĩa. Nếu không chắc chắn về những gì định làm, xin hãy nhờ một người am hiểu về kỹ thuật máy tính làm hộ bạn.
Bước 3: Chép lại dữ liệu
Chép lại toàn bộ dữ liệu đã sao lưu vào ổ đĩa vừa được định dạng.
Loại bỏ khỏi hệ thống những ứng dụng không cần thiết
Nên tránh sử dụng các chương trình chạy ở chế độ nền [background] vì nó sẽ ngốn nhiều tài nguyên của hệ thống. Các ứng dụng như các chương trình quản lý tác vụ, quản lý email, trình duyệt web… đều có thể làm “mệt” cho máy tính của bạn kể cả khi bạn không sử dụng chúng. Bạn có thể chọn một trong hai giải pháp sau:
Chỉ dùng máy tính cho công việc thu âm, soạn nhạc… hoặc
Có một máy tính với cấu hình thật mạnh để có thể xài luôn những chương trình bạn muốn.
Hãy chú ý tới thông số thiết lập bộ đệm [buffer] trong các chương trình xử lý âm
Thiết lập thông số bộ đệm thấp: hệ thống sẽ phải làm việc nhiều hơn, tuy nhiên bạn sẽ không gặp phải tình trạng trễ [latency].
Thiết lập thông số bộ đệm cao: với giá trị 512, 1024 hoặc 2048 mẫu [sample], bạn có thể sử dụng nhiều hiệu ứng âm thanh hơn trên các rãnh thu âm.
Hiện nay, một số phần mềm như Sonar, Cubase, Samplitude… thường tích hợp sẵn công cụ kiểm tra hệ thống sau khi cài đặt. Vì vậy bạn thường không cần phải chỉnh lại do các giá trị thông số mặc định đã được thiết lập một cách tối ưu cho hệ thống.
Không sử dụng chế độ thời gian thực cho các hiệu ứng
Các chương trình xử lý âm hiện nay thường dùng kỹ thuật giữ nguyên trạng [non-destructive] để hiệu chỉnh dữ liệu âm thanh. Có nghĩa là dữ liệu gốc của âm thanh sẽ không hề bị thay đổi trong khi bạn vẫn có thể thêm các hiệu ứng tạo tiếng vang [reverb], chỉnh âm lượng… và nghe thấy sự thay đổi tức thời. Đây là một kỹ thuật đột phá và mang lại nhiều tiện lợi cho công việc thu âm. Tuy nhiên, nếu máy của bạn không đủ mạnh thì đừng dùng chế độ hiệu chỉnh non-destructive. Hãy tham khảo tài liệu hướng dẫn sử dụng để biết cách tắt đi chức năng này.
Tắt đi những rãnh thu không sử dụng
Do một số ứng dụng vẫn sử dụng tài nguyên hệ thống cho những rãnh thu âm không dùng tới (không phát tiếng). Bạn nên tắt hoàn toàn những rãnh này đi bằng cách dùng bật thông số disable, deactive hoặc archive tùy theo chương trình đang sử dụng.
TÍN HIỆU ĐẦU VÀO PHẢI THẬT TỐT
Đây là một yếu tố quyết định chất lượng một bản thu âm.Tín hiệu quá lớn hay quá nhỏ, không giữ được sự trung thực ban đầu… sẽ làm hỏng bản thu âm của bạn.
Khi mix, bạn buộc phải nâng tín hiệu lên vì nó quá nhỏ và như vậy các tín hiệu nhiễu, rè [noise] cũng sẽ được “ăn theo”. Ngược lại khi tín hiệu quá lớn thì âm thanh sẽ bị “bễ” [distortion].
Khoảng dao động cường độ [dynamic range]
Khi thu âm, bạn nhận thấy cường độ của âm thanh biến thiên liên tuc, lúc lớn lúc nhỏ tùy thuộc vào nguồn thu là giọng hát, trình diễn nhạc sống hay môi trường thiên nhiên. Khoảng dao động của cường độ [dynamic range] khác với cường độ của âm thanh [volume]. Cường độ âm thanh là độ lớn của âm thanh tại một thời điểm, còn dao động cường độ là thước đo về sự thay đổi độ lớn của âm thanh.
Tương phỏng [analog] và Số hóa [digital]
Khi thiết lập về độ lớn của âm thanh, có nhiều sự khác biệt giữa cách thu âm dạng tương phỏng [analog] và thu âm dạng số [digital]. Đối với thu âm dạng tương phỏng, người ta có thể cho phép tín hiệu thu vượt mức 0dB mà không làm “bễ” tiếng. Tín hiệu thu đôi khi trở nên ấm và mạnh hơn khi được ghi vào băng từ theo cách này. Tín hiệu lớn hơn 0dB còn giúp che đi các tín hiệu nhiễu [tape hiss] xuất hiện trên hầu hết các thiết bị thu dạng băng từ.
Trong môi trường thu số thì tín hiệu không được vượt quá 0dB và theo định nghĩa thì không có gì cao hơn biên độ 0dB. Nói một cách khác thì việc lưu lại âm thanh số vượt quá 0dB là điều không thể thực hiện. Hầu hết các thiết bị thu số không hiển thị những gì vượt quá 0dB. Nếu tín hiệu thu vượt ngưỡng 0dB thì chúng ta sẽ gặp phải hiện tượng “bễ” tiếng. Hiện tượng “bễ” tiếng dạng số này [digital distortion] không nên để xảy ra khi thu âm số. Tín hiệu thu nên nằm trong khoảng từ -12dB đến -4dB, nó tương đương với mức độ bình thường khi thu âm dạng tương phỏng, ngoài ra bạn còn dư ra được một khoảng biên độ dự phòng để mix lại sau khi thu.
Tín hiệu trước chỉnh [pre level] và tín hiệu sau chỉnh [post level]
Bạn cần nắm rõ hoạt động của các đèn báo tín hiệu trên mixer của mình để có thể thu được tín hiệu tốt nhất. Hầu hết mixer đều cho phép kiểm tra tín hiệu bằng một trong hai dạng: kiểm tra trước khi chỉnh và sau khi chỉnh.
Tín hiệu trước chỉnh [pre-fade level]: thể hiện độ lớn của tín hiệu trước khi qua bộ phận cần chỉnh của mixer. Đây là cách kiểm tra tín hiệu đầu vào chính xác nhất. Khi thu bạn nên thiết lập cần gạt mixer ở mức 0dB, dạng kiểm tra tín hiệu là pre level rồi sử dụng nút điều chỉnh mức độ ở trên cùng của mixer [input trim] để điều chỉnh độ lớn của tín hiệu.
Tín hiệu sau chỉnh [post-fade level]: thể hiện độ lớn của tín hiệu sau khi đã đi qua bộ phận cần chỉnh của mixer. Thiết lập này thường được dùng để kiểm tra tín hiệu của các rãnh đã được thu hoặc xử lý. Sau khi tín hiệu đi qua các cần chỉnh thì nó thường được đưa qua các đường mix [bus] hoặc các ngõ ra chính [main output]. Vì vậy kiểm tra tín hiệu dạng này cũng rất có ích trong quá trình mix.